Ảnh hưởng của cơ giới hóa chiến tranh Cơ giới hóa chiến tranh

Khi phân tích cơ giới hóa chiến tranh ảnh hưởng như thế nào đối với lĩnh vực quân sự và chính trị thế giới hiện đại sẽ không đầy đủ nếu không phân tích cơ giới hóa sản xuất kinh tế - xã hội. Cơ giới hóa chiến tranh chỉ là một phần của cơ giới hóa toàn bộ xã hội loài người, trước hết tập trung trên lĩnh vực sản xuất kinh tế.

Nguồn năng lượng cung cấp không phải từ sức người mà từ than đá, nước và dầu dưới hoạt động của động cơ hơi nước, máy turbine, máy điện,...đã tăng gấp bội lần sản xuất của xã hội loài người. Giáo sư James Fairgrieve đã mô tả sự đóng góp của than đá ở Anh Quốc như sau: "...người ta đã ước tính là riêng than đá dùng trong các nhà máy của chúng ta cũng bằng một năng lượng tương đương với 175 triệu người làm việc cực nhọc và với một năng suất mà con người không sao cung cấp nổi...Cứ so sánh với năng lượng cung cấp cho máy để làm chuyển động mọi vật bằng phương tiện thuần túy cơ giới thì năng lượng tay chân do khoảng dưới 20 triệu người đàn ông và đàn bà cung cấp thật ra không đáng kể mấy."[7]

Trước thời đại công nghiệp (thế kỷ 19), chiến tranh ở châu Âu chưa bao giờ đặt vào mức tổng lực. Xã hội với khả năng sản xuất hạn chế không thể cán đán cho một cuộc chiến quá lớn và kéo dài, càng không thể đưa đông đảo đàn ông vào quân đội mà không cân nhắc các vấn đề thiếu hụt nguồn lực lao động sản xuất dân sự thông thường. Nguồn lực vật chất sẽ không đủ cho xã hội chứ chưa nói tới nhu cầu chiến tranh. Tuy vậy, đến thế kỷ 19 điều đó hoàn toàn khác. Sự phát triển kinh tế vượt trội của thời đại công nghiệp mà máy móc mang lại đã góp phần gia tăng nguồn lực khổng lồ của xã hội về vật chất. Khả năng đó là nền tảng mạnh mẽ cho các nước châu Âu trong việc tiến hành chiến tranh. Với khả năng sản xuất to lớn do máy móc mang lại, chúng giải phóng sức sản xuất của con người. Và hai hệ quả rõ rệt là nguồn của cải vật chất gia tăng, đồng thời số lượng lớn đàn ông được đưa vào quân đội mà không ảnh hưởng sản xuất xã hội. Chính cơ giới hóa sản xuất kinh tế đã đưa các quốc gia châu Âu dễ dàng lao vào chiến tranh tổng lực và đặt nền chính trị trong một sự cân nhắc kỹ lưỡng đối với hậu quả tàn khốc dữ dội của chiến tranh.

Vào năm 1870, bùng nổ cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, đây là cuộc chiến tranh quy mô lớn đầu tiên trong lịch sử sử dụng tàu hỏa để vận chuyển binh lính và vũ khí. Với phương tiện nhanh chóng trên bộ này, đã cho phe Phổ và các đồng minh Bắc Đức lợi thế chiến lược hơn so với Pháp và góp phần đánh bại Pháp. Mặc dù sử dụng tàu hỏa đã diễn ra trong thời gian thống nhất miền Bắc nước Đức nhưng cuộc chiến tranh này có quy mô hơn nhiều. Đồng thời đánh dấu sự vượt trội của quá trình công nghiệp hóa ở Đức so với Pháp.

Cơ giới hóa đã bùng phát mạnh mẽ đầu tiên ở Anh Quốc và biến đất nước này thành công xưởng của thế giới. Ngành hàng hải với khả năng đóng tàu lớn đã giúp Anh xây dựng hải quân hùng hậu. Sức mạnh do nền công nghiệp mang lại chúng cho phép nước Anh sở hữu sức mạnh vượt trội hơn bất cứ quốc gia châu Âu nào. Chỉ trong thời gian ngắn cuối thế kỷ 19, Anh Quốc đã chinh phục hàng loạt quốc gia châu Áchâu Phi, hoàn thành tạo lập một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử. Sau thời kỳ chinh phạt, Anh Quốc ngự trị các vùng đất trải dài trên khắp các châu lục, các thuộc địa chiến lược ven biển trở thành địa điểm kết nối mạng lưới đế quốc, bổ sung than đá hơi nước và đạn dược cho các hạm đội Hải quân hoàng gia, khiến Anh Quốc có thể nhanh chóng đưa quân dập tắt mọi cuộc nổi loạn ở bất cứ đâu dù là xa xôi. Bên cạnh các tuyến hàng hải do Hải quân hoàng gia làm chủ, Anh xây dựng mạng lưới đường sắt rộng khắp đế quốc của mình, góp phần giúp Anh dùng vũ lực ổn định tình hình thuộc địa. Như vậy, cơ giới hóa không chỉ mang đến lợi thế chiến tranh, mà nó còn đảm bảo cho lợi thế của quốc gia đó kéo dài trong thời bình, đảm bảo cho sự thống trị lâu dài các dân tộc.

Chính cơ giới hóa đã tạo khả năng làm chủ thời gian và không gian, với phương tiện vận tải nhanh chóng, quân đội tiết kiệm thời gian di chuyển, mau chóng đưa đến vùng chiến sự. Ưu điểm của khả năng này thật sự đáng kể khi chúng ta xem xét một đế quốc trước đế quốc Anh là Pháp. Nước Pháp dưới quyền Napoleon đã chiếm gần hết châu Âu, quân Pháp đặt chân vào Nga năm 1812. Nhưng khả năng nguồn lực vật chất và vận tải của Pháp lúc đó không giống đế quốc Anh sau này, khi quân viễn chinh Pháp mở rộng, họ đánh bại các đối thủ, băng ngang qua các vùng đất và tiếp tục đi xa hơn, đó cũng là lúc Pháp yếu đi. Đế quốc ngày càng mở rộng cũng là lúc nó dễ tan vỡ. Một mạng lưới giao thông trải rộng ngày càng xa và trở nên nguy hiểm, hậu cần quân sự vì thế khó mà đến được quân viễn chinh Pháp, các lực lượng hộ tống cũng trở nên mỏng và dễ tổn thương hơn. Điểm yếu khác là khả năng thông tin liên lạc cũng yếu đi cùng lúc với khả năng cung ứng hậu cần. Các vùng bị chiếm đóng bắt đầu nổi loạn và đế quốc Pháp bắt đầu lung lay.[8]

Như thế, chính việc cơ giới hóa đã tạo nên nguồn lực khổng lồ cho sức mạnh của quốc gia, và việc cơ giới hóa chiến tranh mang nguồn sức mạnh này bành trướng ra bên ngoài, chinh phục thế giới, cũng như đảm bảo ưu thế lâu dài cho nước thống trị. Chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị, với khả năng ưu thắng của năng lực chiến tranh đã thúc đẩy nền chính trị Anh Quốc và sau đó là các nước châu Âu khác xâm chiếm và thống trị thế giới. Các cường quốc châu Âu khác chạy theo bắt kịp Anh Quốc chỉ một thời gian sau đó. Sự cạnh tranh quyền lực đã đẩy các nước vào chiến tranh. Với khả năng sản xuất do cơ giới hóa mang lại đã đặt các cường quốc châu Âu vào chiến tranh tổng lực, hai cuộc chiến tranh thế giới đã tàn phá kiệt quệ châu Âu.